Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp dệt may trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đa phần là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mới chuyển đổi hình thức sở hữu sang cổ phần từ những doanh nghiệp nhà nước trước đây thực hiện cải tiến rất chậm chạp. Doanh nghiệp rơi vào vòng lẩn quẩn của sự thiếu vốn – khó tiếp cận nguồn tín dụng – thiếu nguồn lực cải tiến – lợi thế cạnh tranh kém – và rồi tiếp tục thiếu vốn. Với tư duy vốn vật chất là nguồn lực duy nhất để thực hiện cải tiến đã đặt doanh nghiệp trong vòng lẩn quẩn và không có lối thoát.
Để tìm giải pháp tối ưu giúp doanh nghiệp thực hiện cải tiến thành công, không còn cách nào khác là phải tư duy thoát ra ngoài hệ thống với giả thuyết cho rằng nguồn lực phục vụ cải tiến không chỉ là vốn hữu hình mà còn là vốn vô hình mạng lại cơ hội tiếp cận như nhau đối với tất các doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy nguồn lực vô hình ở đây là vốn xã hội, chúng tham gia vào tiến trình cải tiến trước hết với tư cách là động lực thúc đẩy doanh nghiệp cải tiến, sau đó là nguồn lực trực tiếp tham gia vào tiến trình cải tiến.
Bên cạnh đó, trung bình các doanh nghiệp chỉ sử dụng khoảng 3,7 loại công nghệ (trong tổng số 21 công nghệ tiên tiến) trong quy trình sản xuất, con số này trong nghiên cứu của Rejean Landry và cộng sự (2000) của các doanh nghiệp ở Canada là 4,67; trung bình mỗi doanh nghiệp có khoảng 5,11 lao động làm công tác nghiên cứu phát triển, chủ yếu là thiết kế mẫu và tìm kiếm nguyên vật liệu. Do sự đầu tư cho công tác nghiên cứu phát triển còn hạn chế, nên tiến trình cải tiến của doanh nghiệp diễn ra chậm chạp, biểu hiện doanh thu từ những sản phẩm cải tiến chiếm khoảng 6,53% trên tổng doanh thu.